Gia quyến Phi_tần_của_Đường_Thái_Tông

Hậu phi

  1. Quý phi Vi thị (貴妃韋氏, 597 - 665), tên thật Vi Khuê (韋珪), biểu tự Trạch (泽), người huyện Đỗ Lăng đất Kinh Triệu, là cháu gái của Bắc Chu Thái phó Vi Hiếu Khoan, con gái của Vi Viên Thành (韦圆成) và chính thất Dương phu nhân. Trong hai sách Đường thư đều không có truyện của bà, hành trạng của bà về sau chỉ được viết qua bia mộ của bà và trong mộ bia của A Sử Na Trung (阿史那忠). Theo đó, Vi thị trước từng hạ giá lấy Lý Hiếu Mân (李孝珉), con trai của Hộ bộ Thượng thư nhà TùyLý Tử Hùng (李子雄), sinh một con gái. Sau khi cả nhà họ Lý bị diệt, Vi Khuê liền thành thiếp của Thái Tông. Năm Vũ Đức thứ 7 (624), Vi Khuê sinh ra con gái tên Lý Mạnh Khương. Năm thứ 9 (626), Thái Tông đăng cơ, sang năm sau, tức Trinh Quán nguyên niên (627), Thái Tông liền phong Vi Khuê làm Quý phi, Mạnh Khương được phong Lâm Xuyên công chúa, còn con gái riêng của Quý phi với Lý Hiếu Mân được phong làm Định Tương Huyện chúa, lấy thân phận Tông thất nữ hạ giá A Sử Na Trung. Năm thứ 2 (628), Vi Quý phi sinh hạ Kỷ vương Lý Thận. Khi Đường Cao Tông Lý Trị lên ngôi, Vi Quý phi do sinh hạ Kỷ vương nên được đổi gọi làm Kỷ Quốc Thái phi (紀國太妃). Năm Lân Đức thứ 2 (665), khi tùy hầu Cao Tông và Võ Tắc Thiên lên Thái Sơn phong thiện, Vi Thái phi qua đời ở huyện Hà Nam, được bồi táng ở Chiêu lăng.
  2. Quý phi Dương thị (貴妃杨氏), không rõ xuất thân. Có sách nói bà là con gái của Dương Huyền Tưởng (杨玄奖) - Trưởng tử của Dương Tố, nhưng không có khảo chứng[5]. Bà chỉ được biết đến vì sinh ra Triệu vương Lý Phúc (李福) - con trai thứ 13 của Đường Thái Tông[6], thời Cao Tông được phong làm Triệu Quốc Thái phi (趙國太妃), khi qua đời thì được bồi táng tại Chiêu lăng. Cả hai sách Đường thư đều gọi bà là "Dương phi", không rõ phong hiệu khi còn sống, vì khi đó phong hiệu "Quý phi" là của Vi Khuê, không rõ phong hiệu "Quý phi" của Dương phi được xác nhận từ lúc nào, bia mộ của Triệu vương là tài liệu duy nhất đề cập danh xưng "Quý phi" của bà, có lẽ là một dạng phong tặng sau khi qua đời mà thôi.
  3. Đức phi Yến thị (德妃燕氏, 609 - 671), xuất thân thế tộc họ Yến tại huyện Xương Bình, Trác quận. Cháu nội của U châu Tổng quản nhà TùyYến Vinh (燕荣), con gái Yến Bảo Thọ (燕宝寿) và Dương phu nhân. Bà có người anh trai là Thứ sử của Ngạc ChâuVận Châu, tước Xương Bình Quận công Yến Kính Tự (燕敬嗣). Dương phu nhân xuất thân Hoàng tộc nhà Tùy, là con gái thứ 3 của Dương Hùng (杨雄). Khi Yến thị được khoảng 13 tuổi, nức tiếng hiền đức, nên khoảng năm Vũ Đức thứ 4 (621) được nạp cho Lý Thế Dân làm thiếp, khi đó ông còn là Tần vương. Năm Trinh Quán nguyên niên (627), Yến thị được phong "Hiền phi", cùng năm sinh Hoàng bát tử Việt vương Lý Trinh. Không lâu sau, bà sinh ra Hoàng thập nhất tử Lý Hiêu (李囂) nhưng Hoàng tử chết non vào năm Trinh Quán thứ 6 (632), nên truy phong Giang Thương vương. Năm Trinh Quán thứ 18 (644), Yến thị lại được tấn phong "Đức phi". Lúc ấy, Yến thị có quan hệ họ hàng với 3 phi tần khác của Đường Thái Tông là Sào Vương phi Dương thị, Dương Tiệp dư và Tài nhân Võ Mị. Ngoại tổ phụ Dương Đạt của Võ Mị là em trai của Quan vương. Thời Đường Cao Tông, Yến Đức phi được tôn làm Việt Quốc Thái phi (越國太妃), cùng con là Việt vương Trinh dời đến sống ở phong quốc. Năm Càn Phong nguyên niên (666), Yến phi hầu Cao Tông và Võ hậu lên Thái Sơn, đảm nhận tế Chung hiến. Đến năm Hàm Hanh thứ 2 (671), Yến phi qua đời ở Trịnh Châu (nay thuộc khu vực Hà Nam, Trung Quốc), thọ 63 tuổi. Bà được phụ táng vào Chiêu lăng.
  4. Hiền phi Từ thị (賢妃徐氏, 627 - 650), tên thật Từ Huệ (徐惠), người Hồ châu, xuất thân gia tộc có tiếng thi thư. Bà là con gái Từ Hiếu Đức (徐孝德), chị gái của Thứ sử Từ Tế Đam (徐齐聃), bà còn có và một em gái, về sau là Tiệp dư của Đường Cao Tông. Trong lịch sử ghi lại, Từ thị là tài nữ nổi danh đương thời, trở thành một trong những Phi tần được sủng ái bậc nhất những năm cuối đời Thái Tông, nhập cung làm Tài nhân rồi dần phong đến bậc "Sung dung" (充容). Mất ít lâu sau khi Thái Tông băng hà, được truy tặng "Hiền phi" và an táng tại Chiêu lăng. Bà là phi tần duy nhất của Đường Thái Tông có truyện riêng trong phần "Hậu phi truyện" của hai sách Đường thư.
  5. Phi Dương thị (妃杨氏), con gái của Tùy Dạng Đế Dương Quảng, sinh ra Ngô vương Lý Khác - con trai thứ 3 của Đường Thái Tông; và Thục Điệu vương Lý Âm (李愔) - con trai thứ 6 của Đường Thái Tông. Đương thời, cả hai sách Đường thư đều không ghi rõ hành trạng của bà, sinh mẫu là ai. Năm Đại Nghiệp thứ 14 (618), Tùy Dạng Đế bị giết ở Giang Đô, và căn cứ theo năm sinh của Ngô vương Khác (năm 619, tức Vũ Đức năm thứ 2), Dương thị trở thành phi tần của Đường Thái Tông trong thời gian trước đó vài năm. Năm Vũ Đức thứ 9 (626), Đường Thái Tông đăng cơ. Căn cứ vào việc Dương thị về sau được gọi là "Phi", thì hẳn bà đã đạt được vị trí trong Tứ phi, nhưng cả hai sách Đường thư này lại không rõ danh hiệu. Khi đó "Quý phi" là Vi Khuê và "Hiền phi" là Yến thị còn đang tại vị, nên danh hiệu của bà nhiều khả năng là "Thục phi" hoặc "Đức phi", tuy nhiên điều này không có xác minh, có khả năng bà chỉ nhận đãi ngộ là hàng Phi mà không có danh xưng chính thức[note 1]. Không rõ hành trạng của Dương phi sau đó thế nào. Chỉ biết về sau, bà cũng được phụ táng vào Chiêu lăng.
  6. Phi Âm thị (妃陰氏), người Vũ Uy thuộc Lương Châu, sinh ra Tề vương Lý Hựu (李祐) - con trai thứ 5 của Đường Thái Tông. Bà là cháu nội của khai quốc công thần nhà TùyÂm Thọ (陰壽), con gái Âm Thế Sư (陰世師). Năm Đại Nghiệp thứ 13 (617), Đường Cao Tổ Lý Uyên khởi nghĩa chống nhà Tùy tại Thái Nguyên, Âm Thế Sư trung thành với nhà Tùy, để đáp trả đã sát hại Lý Trí Vân (李智云) - con trai thứ 5 của Đường Cao Tổ, phá hủy nhiều mộ phần của họ Lý. Sau này nhà họ Âm bị tru sát, chỉ còn lại Âm thị và anh trai là Âm Hoằng Trí (阴弘智). Theo như biểu hiện, Âm thị được Thái Tông nạp làm thiếp từ trước khi ông lên ngôi. Khoảng đầu năm Vũ Đức (618 hoặc 619), Âm thị đã sinh ra Lý Hựu. Sau khi Lý Thế Dân đăng cơ, bà được phong "Phi", không rõ danh hiệu, nhưng do khi đó "Quý phi" là Vi Khuê và "Hiền phi" là Yến thị còn đang tại vị, nên danh hiệu của bà nhiều khả năng là "Thục phi" hay "Đức phi", nhưng cũng không loại trừ khả năng bà cũng giống như Dương phi: chỉ có đãi ngộ hàng Phi mà không có danh xưng. Năm Trinh Quán thứ 17 (643), con trai là Tề vương Hựu mắc tội mưu phản, hùa theo cậu là Hoằng Trí gây loạn. Không lâu sau, Lý Hựu bị giải về Trường An, ban chết. Sách sử không ghi thêm hành trạng và số phận về sau của bà. Bà được táng tại Chiêu lăng, nhưng mộ được ghi Âm tần mộ (陰嬪墓), có lẽ là vì bị con trai liên lụy mà bị giáng tước[7].
  • Tần:
  1. Hiền phi Trịnh thị (賢妃鄭氏), chỉ được đề cập trong Đường hội yếu (唐会要) khi nói về các phụ nữ được táng tại Chiêu lăng[8]. Có ý kiến rằng "Đường hội yếu" ghi nhầm, nên là 「"Hiền phi Từ thị, Tài nhân Trịnh thị"」, bởi vì ngay sau Trịnh thị là Từ Huệ nhưng lại chỉ là "Tài nhân", hoàn toàn không khớp với lịch sử.
  2. Chiêu dung Vi thị (昭容韋氏, 607 - 656), tên thật là Ni Tử (尼子), con gái Vi Khuông Bá (韦匡伯), em họ của Quý phi Vi Khuê, Vi thị được Thái Tông nạp làm thiếp từ trước khi ông lên ngôi, sau đó nâng làm Chiêu dung[9][note 2].
  3. Chiêu nghi Mỗ thị (昭儀某氏, 601 - 682), không rõ danh tính, an táng tại Chiêu lăng. Hiện tại chỉ còn một bài bia mộ, chữ "Mỗ" trong Hán ngữ có nghĩa là "không rõ ràng", ý nói vị Chiêu nghi này không rõ họ gì, từ đây trở xuống khi ghi "Mỗ" thì đều cùng ý nghĩa này.
  4. Hạ tần Mỗ thị (下嫔某氏), sinh ra Dự Chương công chúa[10][note 3].
  • Ngự thê:
  1. Tiệp dư Mỗ thị (婕妤某氏), không rõ danh tính, an táng tại Chiêu lăng. Hiện tại chỉ còn một bài bia mộ[11].
  2. Tiệp dư Dương thị (婕妤楊氏), con gái thứ ba của Dương Cung Đạo (楊恭道), không rõ nơi táng[12].
  3. Mỹ nhân Tiêu thị (美人蕭氏), con gái Tiêu Thước (蕭鑠), không rõ nơi táng[13].
  4. Tài nhân Thôi thị (才人崔氏), con gái của Thôi Hoành Đạo (崔宏道), không rõ nơi táng[14].
  5. Tài nhân Tiêu thị (才人 蕭氏), con gái Tiêu Khanh (蕭鏗), không rõ nơi táng[15].
  6. Tài nhân Võ Mị, con gái Võ Sĩ Hoạch. Vào cung làm Tài nhân, sau khi Thái Tông qua đời thì ra Cảm Nghiệp tự, rồi lại quay về làm Chiêu nghi của Đường Cao Tông Lý Trị.
  • Nữ quan và Cung nhân:
  1. Tam phẩm Cung nhân Chu thị (三品宮人周氏), bồi táng Chiêu lăng.
  2. Tam phẩm Vong cung Kim thị (三品亡宮金氏; 625 - 688), bồi táng Chiêu lăng[16].
  3. Vong cung Ngũ phẩm Mỗ thị (亡宮五品某氏; ? - 657), bồi táng Chiêu lăng.
  4. Tam phẩm Vong ni Mỗ thị (三品亡尼某氏), xuất gia làm ni sư, bồi táng Chiêu lăng.
  5. Thất phẩm Điển đăng (七品典燈), bồi táng Chiêu lăng.
  • Nhân tình không có danh phận:
  1. Sào Lạt vương phi Dương thị (巢剌王妃楊氏), vợ của Sào Lạt vương (nguyên là Tề vương) Lý Nguyên Cát. Sinh ra Tào Cung vương Lý Minh.
  2. Đao nhân Cao Huệ Thông (高惠通; 597 - 626), người Bột Hải, cháu gái của Cao Thành Tịnh (高成并), con gái của Cao Thế Đạt (高世达) thời nhà Tùy[17].
  3. Vương thị (王氏), sinh Tương vương Lý Uẩn, không rõ truyện, chỉ biết sinh ra Lý Uẩn.
  4. Cung nhân không rõ họ, vốn là thiếp của Lư Giang vương Lý Viện[18].

Hoàng tử

  1. Thường Sơn Quận vương → Trung Sơn Quận vương → Hoàng thái tử Lý Thừa Càn (李承乾; 619 - 645), mẹ là Văn Đức hoàng hậu. Năm 644, do mắc tội mưu phản mà bị phế làm thứ dân, sau khi mất được khôi phục lại làm Thường Sơn Mẫn Vương (恆山愍王)[19].
  2. Sở vương Lý Khoan [楚王李寬; 610 - 620], mẹ không rõ, mất sớm.
  3. Trường Sa Quận vương → Hán Trung Quận vương → Thục vương → Ngô vương Lý Khác (吳王李恪; 619 - 653), mẹ là Dương phi, con gái Tùy Dạng đế. Bị kết tội tạo phản, phế làm thứ dân. Về sau được tặng làm Uất Lâm Quận vương (鬱林郡王).
  4. Nghi Đô Quận vương → Vệ vương → Việt vương → Ngụy vương Lý Thái [魏王李泰; 619 - 652], mẹ là Văn Đức Hoàng hậu. Sau bị giáng làm Đông Lai Quận vương (東來郡王), rồi Thuận Dương Quận vương (順陽郡王). Khi chết truy tặng làm Bộc Cung vương (濮恭王).
  5. Nghi Dương Quận vương → Sở Vương → Yên vương → Tề vương Lý Hựu [齊王李祐; ? - 643], mẹ là Âm phi, sau mắc tội bị phế làm thứ dân.
  6. Lương Vương → Thục vương Lý Âm [蜀王李愔; ? - 667], mẹ là Dương Phi. Bị cho là cùng Ngô Vương Lý Khác mưu phản nghịch nên bị biếm làm thứ dân. Sau truy tặng làm Phù Lăng Quận vương (涪陵郡王), rồi Thục Điệu vương (蜀悼王).
  7. Đàm vương → Tưởng vương Lý Uẩn [蔣王李惲; ? - 674], mẹ là Vương Cung nhân.
  8. Hán vương → Nguyên vương → Việt Kính vương Lý Trinh [越敬王李貞; 627 - 688], mẹ là Yến Đức phi. Sau phản Võ Tắc Thiên, thua trận bị chết, bị Võ Tắc Thiên đổi họ Hủy (虺氏), đến niên hiệu Thần Long được phục hồi quan tước.
  9. Tấn vương → Hoàng thái tử → Đường Cao Tông Lý Trị, mẹ là Văn Đức Hoàng hậu.
  10. Thân vương → Kỷ vương Lý Thận [紀王李慎; 628 - 689], mẹ là Vi Quý phi. Vì lý do Việt vương Lý Trinh có sự, bị Võ hậu đổi họ 「Hủy」, đến niên hiệu Thần Long được phục hồi quan tước.
  11. Giang Thương vương Lý Hiêu [江殤王李囂; ? - 633], mẹ là Yến Đức phi, mất sớm.
  12. Đại vương Lý Giản [代王李簡; ? - 632], mẹ không rõ, chết sớm.
  13. Triệu vương Lý Phúc [趙王李福; 635 - 670], mẹ là Dương Quý phi.
  14. Tào Cung vương Lý Minh [曹恭王李明], mẹ nguyên là vợ của Lý Nguyên Cát, tức Sào Vương phi Dương thị.

Hoàng nữ

Đường Thái Tông có 21 con gái[20]:

  1. Tương Thành công chúa (襄城公主; ? - 651), lấy Tiêu Duệ (蕭銳), sau lại lấy Khương Giản (姜簡).
  2. Nhữ Nam công chúa (汝南公主), chết sớm.
  3. Nam Bình công chúa (南平公主; ? - 650), lấy Vương Kính Trực (王敬直), sau lại lấy Lưu Huyền Ý (劉玄意).
  4. Toại An công chúa (遂安公主), lấy Đậu Quỳ (竇逵), sau lại lấy Vương Đại Lễ (王大禮).
  5. Trường Lạc công chúa (長樂公主; 621 - 643), tên gọi Lý Lệ Chất (李麗質), mẹ là Văn Đức Hoàng hậu, lấy Trưởng Tôn Xung (長孫沖).
  6. Dự Chương công chúa (豫章公主), lấy Đường Nghĩa Đức (唐義識).
  7. Ba Lăng công chúa (巴陵公主; ? - 653), lấy Sài Lệnh Vũ (柴令武), sau bị ép tự sát, truy phong làm Tỉ Cảnh công chúa (比景公主).
  8. Đức Lăng công chúa (德陵公主), lấy Sử Nhân Biểu (史仁表).
  9. Đông Dương công chúa (東陽公主), lấy Cao Lý Hành (高履行).
  10. Lâm Xuyên công chúa (臨川公主; 624 - 682), biểu tự Mạnh Khương (孟姜), mẹ là Vi Quý phi, lấy Chu Đạo Vũ (周道務).
  11. Thanh Hà công chúa (清河公主; 624 - 664), tên gọi Lý Kính (李敬), biểu tự Đức Hiền (德賢), lấy Trình Hoài Lượng (程懷亮).
  12. Lan Lăng công chúa (蘭陵公主; ? - 658), tên gọi Lý Thục (李淑), biểu tự Lệ Trinh (麗貞), lấy Đậu Hoài Chiết (竇懷悊).
  13. Tấn An công chúa (晉安公主), lấy Vi Tư An (韋思安), sau lại lấy Dương Nhân Lộ (楊仁輅).
  14. An Khang công chúa (安康公主), lấy Độc Cô Mưu (獨孤謀).
  15. Tân Hưng công chúa (新興公主), lấy Trưởng Tôn Hy (長孫曦).
  16. Thành Dương công chúa (城陽公主), mẹ là Văn Đức Hoàng hậu, lấy Đỗ Hà (杜荷), sau lấy Tiết Quán (薛瓘). Con trai là Tiết Thiệu (薛紹) sau này lấy Thái Bình công chúa.
  17. Cao Dương công chúa (高阳公主), lấy Phòng Di Ái (房遺愛), sau bị ép phải tự sát, truy phong làm Hợp Phổ công chúa (合浦公主).
  18. Kim Sơn công chúa (金山公主), chết sớm.
  19. Tấn Dương công chúa (晉陽公主; 633 - 644), nhũ danh Hủy Tử (兕子), biểu tự Minh Đạt (明達), mẹ là Văn Đức Hoàng hậu. Mất khi lên 12 tuổi.
  20. Thường Sơn công chúa (常山公主), sự tích không rõ, mất khoảng năm Hiển Khánh.
  21. Tân Thành công chúa (新城公主; 634 - 663), mẹ là Văn Đức Hoàng hậu, trước lấy Trưởng Tôn Thuyên (長孫詮), sau lại lấy Vi Chánh Củ (韋正矩).